Mùa thu năm ấy (1945), từ Ba Đình - Thủ đô Hà Nội đến đồng bằng Bắc Bộ và cả nước, trong đó có Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam, muôn triệu trái tim cùng rung lên trong niềm vui vỡ òa khi bản Tuyên ngôn Độc lập thiêng liêng vang trên sóng phát thanh. Tại các làng quê, thị xã, chính quyền cách mạng được thành lập, cờ đỏ sao vàng rợp trời, báo hiệu một dân tộc đã vùng lên giành lại tự do sau bao năm nô lệ.

Kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 02/9/1945 – 02/9/2025 là dịp để nhân dân cả nước nói chung, nhân dân tỉnh Ninh Bình (vùng Ninh Bình – Nam Định – Hà Nam) nói riêng, cùng ôn lại những chặng đường lịch sử vẻ vang trong hành trình dựng nước và giữ nước. Qua mỗi thời kỳ, từng giai đoạn, tài liệu lưu trữ chính là “chứng nhân lịch sử”, bảo tồn những dấu ấn không thể phai mờ của quê hương – nơi lòng yêu nước, sự kiên cường đã làm nên mùa thu độc lập cách mạng và khát vọng phát triển hôm nay.
1. Tự hào mùa thu Cách mạng Tháng 8 năm 1945 – Đồng loạt khởi nghĩa giành chính quyền
Những ngày sục sôi Tháng Tám 1945:
- Tại Ninh Bình: “Sau ba ngày khởi nghĩa, chính quyền đế quốc, phong kiến trong toàn tỉnh đã bị đập tan. Trong không khí phấn khởi, khẩn trương, ngày 21/8/1945, Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (mở rộng) họp tại thôn Gián Khẩu (Gia Trấn, Gia Viễn) đề ra nhiệm vụ: Tiếp tục xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng các cấp, mở rộng Mặt trận Việt Minh, phát triển lực lượng quân sự, đối phó với phản động, chăm sóc đời sống nhân dân... Mọi hoạt động lúc này phải nhằm vào động viên nhân dân trong toàn tỉnh hăng hái xây dựng nền độc lập. Ngày 25/8/1945, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Ninh Bình do đồng chí Văn Tiến Dũng làm Chủ tịch ra mắt nhân dân. Trước hai vạn đồng bào, đồng chí Văn Tiến Dũng trịnh trọng tuyên bố: Ninh Bình hoàn toàn giải phóng, thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân trong toàn tỉnh”. [1,Tr 86].
- Tại Nam Định: chính quyền cách mạng giành thắng lợi toàn tỉnh ngày 21/8/1945, với khí thế của một vùng công – nông mạnh, phong trào Việt Minh sôi nổi. “Trong đêm 20 và sáng ngày 21-8, truyền đơn kêu gọi nhân dân mít tinh được rải khắp thành phố và các vùng lân cận. Chiều hôm đó, cả thành phố là một rừng cờ đỏ sao vàng. Quần chúng nội, ngoại thành và các huyện lân cận, trong đó có đông đảo nhân dân xã Mỹ Xá (Mỹ Lộc), Đại An (Vụ Bản) gồm đủ các giai cấp, các tầng lớp rầm rộ đổ về dốc Lò Trâu tập trung trước lễ đài uy nghi. Đến 3 giờ chiều, cuộc mít tinh khai mạc. Nhạc bài Tiến quân ca vang lên. Cờ đỏ sao vàng tung bay. Gần ba vạn quần chúng hân hoan hưởng những giờ phút độc lập đầu tiên trong đời, lắng nghe lời hiệu triệu của Việt Minh kêu gọi nhân dân nổi dậy giành chính quyền và thực hiện 10 chính sách của Mặt trận Việt Minh. Uỷ ban khởi nghĩa tuyên bố xoá bỏ chính quyền bù nhìn, thiết lập chính quyền cách mạng. Tỉnh trưởng Nguyễn Huy Xương được triệu đến chứng kiến phút sụp đổ của chính quyền phong kiến thực dân. Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Nam Định được thành lập, gồm bảy người do đồng chí Đặng Châu Tuệ làm Chủ tịch. Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời thành phố Nam Định do đồng chí Nguyễn Văn Hoan làm Chủ tịch ra mắt nhân dân. Kết thúc cuộc mít tinh là tiếng hô khẩu hiệu của mọi người vang động khắp thành phố”. [2].
- Tại Hà Nam: Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nam kể từ khi bắt đầu đến khi giành thắng lợi diễn ra trong 5 ngày (20-24/8/1945). Đúng 10 giờ ngày 24/8/1945 cuộc mít tinh của nhân dân Hà Nam được tổ chức ở Phủ Lý chào mừng khởi nghĩa thắng lợi và ra mắt Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh do đồng chí Lê Thành làm Chủ tịch và công bố 10 chính sách của mặt trận Việt Minh [3, Tr 51].
Tháng Tám lịch sử năm 1945 đã khắc sâu vào tâm khảm nhân dân ba tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình với khí thế đồng loạt vùng lên giành chính quyền về tay nhân dân. Chỉ trong những ngày cuối tháng Tám, chính quyền cách mạng đã được thiết lập ở khắp các huyện, thị, từ vùng đồng bằng đến miền núi. Chiến thắng ấy là kết tinh của ý chí độc lập, lòng yêu nước và sự đoàn kết kiên cường của nhân dân ba tỉnh. Đó cũng là khởi đầu đầy vinh quang cho hành trình 80 năm kiêu hãnh trong dòng chảy lịch sử dân tộc – một hành trình mà ngày hôm nay, các thế hệ tiếp nối đang viết tiếp với khát vọng phát triển, dựng xây quê hương giàu mạnh, văn minh.
2. Chiến tranh, khôi phục, phát triển – Tài liệu lưu trữ ghi dấu hành trình dân tộc và địa phương
Giành được chính quyền, 3 tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình tiếp tục đi qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ, với những đóng góp to lớn, bền bỉ từ các cấp ủy Đảng, chính quyền, quân và dân vùng đồng bằng Bắc Bộ. Trong suốt hành trình ấy, tài liệu lưu trữ chính là nhân chứng xác thực, ghi lại từng bước trưởng thành, hy sinh và nỗ lực không ngừng nghỉ của quê hương.
- Thời kỳ chống thực dân Pháp (1946–1954): Ninh Bình – Nam Định – Hà Nam là tuyến sau kiên cường, nơi có các làng chiến đấu, dân công hỏa tuyến, tiêu thổ kháng chiến. Nhiều tài liệu ghi rõ các phong trào cứu đói năm 1945–1946, lập làng kháng chiến, tiếp tế chiến trường.

Số 590-HC ngày 26/6/1948 Báo cáo về tình hình UB các xã và dân chúng trong khi địch quân về Ninh Bình
(Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh Ninh Bình)

Số 5703 ngày 13/10/1948 của UBKCHC huyện Gia Khánh báo cáo tình hình chiến sự ngày 11/10/1948
(Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh Ninh Bình)
- Thời kỳ chống đế quốc Mỹ (1954–1975): Các tỉnh là hậu phương chiến lược lớn của miền Bắc, đồng thời là vùng trọng điểm bị không quân Mỹ đánh phá ác liệt, với nhiều trọng điểm giao thông, nhà máy, kho tàng quan trọng. Tài liệu lưu trữ phản ánh sinh động các mệnh lệnh sơ tán dân cư, xây dựng hầm trú ẩn, công sự, huy động dân công hỏa tuyến, các phong trào thi đua sản xuất, chiến đấu, thể hiện ý chí quật cường “tay cày tay súng, vừa sản xuất vừa chiến đấu” của quân và dân.
Từ tài liệu phản ánh thi đua sản xuất, báo cáo kết quả phong trào “Mỗi người làm việc bằng hai”, lệnh điều động thanh niên xung phong, dân công... – tất cả đều là ký ức bằng giấy tờ về một thời hào hùng và bất khuất.

Số 1630 của Ty Giao thông tỉnh Ninh Bình báo cáo tình hình dân công phục vụ đường 12 từ ngày 1/8/1955 đến 15/8/1955
(Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh Ninh Bình)

Kế hoạch số 180/C1 ngày 01/4/1968 của Tỉnh đội Ninh Bình xây dựng cơ sở và làng chiến đấu của tổ công tác
(Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh Ninh Bình)

Quyết định 887QĐK của Ủy ban hành chính Nam Hà về việc giao nhiệm vụ cho các huyện và các HTX vận tải vận chuyển lương thực phục vụ tiền phương (Tờ số 06, hồ sơ 1346, phông Ủy ban hành chính tỉnh Nam Hà – TTLTLS tỉnh Ninh Bình)

Trích “Báo cáo 469 của Nhà máy Dệt Nam Định báo cáo thành tích sản xuất và chiến đấu nhà máy Dệt Nam Định” (tờ số 03, hồ sơ 1198, phông UBHC tỉnh Nam Hà - TTLTLS tỉnh Ninh Bình)
.jpg)
160.Đoàn đại biểu Thành phố Prato nước Ý (hai thành phố kết nghĩa) sang thăm thành phố Nam Định ngày 01.10.1974
(Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh Ninh Bình)

Quyết định số 162QĐ/UB ngày 24/3/1975 của UBHC tỉnh Ninh Bình giao thi công một số hạng mục công trình nhà máy phân lân nung chảy Ninh Bình (Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh Ninh Bình)
Các tài liệu cũng phản ánh sự hợp tác, chi viện lẫn nhau giữa các địa phương trong nước và sự giúp đỡ quý báu của bạn bè quốc tế, từ nguồn viện trợ vật chất, thuốc men, lương thực, thiết bị, đến sự ủng hộ về tinh thần và ngoại giao. Đây là minh chứng cho sức mạnh của tình đoàn kết dân tộc gắn liền với tình hữu nghị quốc tế, hun đúc nên tinh thần “tay cày tay súng, vừa sản xuất vừa chiến đấu” – biểu tượng của ý chí kiên cường và lòng yêu nước bất diệt của quân và dân vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Số liệu về việc tuyển quân ở Nam Định đóng góp qua các thời kỳ (Nguồn: Lịch sử Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nam Định, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định 1930-1975, NXBCTQG, H, 2001, tr688)

248.Nhân dân Nam Hà mít tinh mừng ngày đại thắng 30/4/1975 (Tài liệu ảnh 1974-1976, Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh Ninh Bình)
- Thời kỳ 1975 đến nay: Sau ngày đất nước thống nhất, các tỉnh tập trung vào khôi phục kinh tế, ổn định đời sống nhân dân, đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất, phát triển hệ thống thủy lợi, giáo dục, y tế. Giai đoạn hợp nhất tỉnh Hà Nam Ninh, rồi Nam Hà, và sau đó tái lập các tỉnh năm 1992 là bước ngoặt lớn về hành chính – quản lý. Tài liệu lưu trữ ghi lại đầy đủ các quyết định tổ chức bộ máy, đầu tư công trình trọng điểm, báo cáo phát triển kinh tế – xã hội và đặc biệt là tài liệu về cải cách hành chính, đổi mới và hội nhập. Đây chính là nguồn tư liệu quý phục vụ công tác quản lý, giáo dục truyền thống, cũng như xây dựng chính quyền số trong giai đoạn hiện nay.
-T%E1%BB%89nh_%E1%BB%A7y%2C_UB_H%C3%A0_Nam_Ninh_ti%E1%BA%BFp_c%C3%A1c_chuy%C3%AAn_gia_Li%C3%AAn_X%C3%B4_khoan_th%C4%83m_d%C3%B2_d%E1%BA%A7u_kh%C3%AD_%E1%BB%9F_Xu%C3%A2n_Th%E1%BB%A7y_t%E1%BA%BFt_nguy%C3%AAn_%C4%91%C3%A1n_n%C4%83m_1976.jpg)
263(20)Tỉnh ủy, UB Hà Nam Ninh tiếp các chuyên gia Liên Xô khoan thăm dò dầu khí ở Xuân Thủy tết nguyên đán năm 1976 (Tài liệu ảnh 1974-1976, Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh Ninh Bình)

482.Đồng chí Phan Điền - Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam Ninh tiếp đoàn chuyên gia Liên Xô công tác ở công trình núi Đính ngày 20.01.1977 (Tài liệu ảnh 1974-1976, Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh Ninh Bình)

Quyết định số 332/QĐ-UB ngày 31/5/1990 của UBND tỉnh Hà Nam Ninh về việc khen thưởng thành tích các em đạt giải Quốc gia kỳ thi học sinh giỏi toàn quốc năm học 1989-1990 (Tờ số 46 - Lưu Văn thư 1990 - TTLTLS tỉnh Ninh Bình)

Số 23/BC-UB ngày 06/12/1997 của UBND tỉnh Ninh Bình báo cáo tình hình hợp tác Quốc tế về cải cách hành chính năm 1997
(Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh Ninh Bình)
Suốt chiều dài lịch sử từ sau ngày Độc lập 2/9/1945, nhân dân các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình đã kiên cường vượt qua muôn vàn khó khăn, vừa chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, vừa nỗ lực khôi phục sản xuất, ổn định đời sống. Từng trang hồ sơ, mỗi tập tài liệu lưu trữ còn lại đến hôm nay chính là chứng tích sống động, ghi lại những năm tháng hào hùng ấy – từ lệnh động viên, quyết định sơ tán, phương án bảo vệ kho tàng, cầu cống, cho đến các báo cáo sản xuất, phong trào thi đua yêu nước, những kế hoạch tái thiết sau chiến tranh. Tài liệu lưu trữ không chỉ lưu giữ ký ức về hành trình đấu tranh giành độc lập, thống nhất, mà còn phản ánh chân thực quá trình vươn lên mạnh mẽ của quê hương qua từng chặng đường phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, quốc phòng sau hòa bình lập lại.
3. Chia tách – Tái lập – Hợp nhất tỉnh: Dòng chảy lịch sử phản ánh qua hồ sơ lưu trữ
Ninh Bình là tỉnh nằm ở cực Nam của đồng bằng sông Hồng, có vị trí địa lý và giao thông thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội. Phía bắc giáp tỉnh Hòa Bình, phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Nam Định và Hà Nam, phía Nam giáp biển Đông, phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Thanh Hóa. Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, vùng đất Ninh Bình có nhiều biến động do thay đổi địa giới hành chính hoặc thay đổi danh xưng.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, tỉnh Ninh Bình trực thuộc Khu 3 gồm 1 thị xã, 6 huyện, 2 thị trấn. Ngày 27/12/1975, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa V, kỳ họp thứ 2 đã thông qua Nghị quyết về việc phân vạch lại địa giới hành chính một số tỉnh, trong đó quyết định hợp nhất tỉnh Nam Hà và tỉnh Ninh Bình thành một tỉnh mới, lấy tên là tỉnh Hà Nam Ninh với 21 ĐVHC cấp huyện và 482 ĐVHC cấp xã.
_Page1.png)
_Page2.png)
Nghị quyết ngày 27/12/1975 của Quốc hội về việc hợp nhất một số tỉnh (Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III)
Ngày 26/12/1991, Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá VIII nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Nghị quyết về việc phân vạch lại địa giới hành chính một số tỉnh; trong đó quyết định chia tỉnh Hà Nam Ninh thành 2 tỉnh, lấy tên là tỉnh Nam Hà và tỉnh Ninh Bình. Tỉnh Ninh Bình được tái lập, có 7 ĐVHC cấp huyện gồm: thị xã Ninh Bình, thị xã Tam Điệp và các huyện: Hoa Lư, Tam Điệp, Gia Viễn, Hoàng Long, Kim Sơn; tỉnh lỵ là Thị xã Ninh Bình.
_1.png)
Nghị quyết ngày 26/12/1991 của Quốc hội về việc phân vạch địa giới hành chính một số tỉnh (Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III)
Ngày 01/04/1992, tỉnh Ninh Bình chính thức đi vào hoạt động theo tỉnh mới được tái lập. Thực hiện Nghị quyết số 1318/NQ-UBTVQH15 ngày 10/12/2024 của UBTV Quốc hội, kể từ ngày 01/01/2025 đến 30/6/2025 tỉnh Ninh Bình có 07 ĐVHC cấp huyện và 125 ĐVHC cấp xã.
Nam Định thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, nằm ở vị trí trung chuyển giữa các tỉnh phía Nam đồng bằng sông Hồng và các tỉnh Bắc Trung Bộ. Phía bắc giáp tỉnh Thái Bình và tỉnh Hà Nam; Phía tây giáp tỉnh Ninh Bình; Phía đông và phía nam giáp biển Đông. Theo biến thiên lịch sử của đất nước, Nam Định đã trải qua nhiều lần thay đổi về phạm vi, giới hạn và địa danh khác nhau.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, theo yêu cầu nhiệm vụ của từng thời kỳ, Nam Định cũng trải qua nhiều lần thay đổi về đơn vị hành chính. Từ năm 1945-1975: tỉnh Nam Định hợp nhất với tỉnh Hà Nam thành tỉnh Nam Hà với 13 ĐVHC cấp huyện, 337 ĐVHC cấp xã.
Từ năm 1975-1991: tỉnh Nam Hà hợp nhất với tỉnh Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh.
Từ năm 1991-1996: chia tách tỉnh Hà Nam Ninh thành 2 tỉnh Nam Hà và Ninh Bình. Trong đó Nam Định thuộc tỉnh Nam Hà. Năm 1997 chia tách tỉnh Nam Hà thành tỉnh Nam Định và tỉnh Hà Nam. Theo đó, tỉnh Nam Định sau tái lập có 10 ĐVHC cấp huyện, 226 ĐVHC cấp xã.

Quyết định 986/TTg ngày 30/12/1996 của Chính phủ về việc chỉ định Ủy ban nhân dân lâm thời tỉnh Hà Nam
(Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh Ninh Bình)

Kế hoạch 194/VP6 ngày 30/11/1996 của UBND tỉnh Nam Hà chỉ đạo phân chia tài sản – tài chính trong việc chia tách tỉnh
(Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh Ninh Bình)
Từ năm 2019-2021, thực hiện sắp xếp ĐVHC tỉnh Nam Định có 10 ĐVHC cấp huyện và 226 ĐVHC cấp xã. Từ năm 2021 đến 8/2024 số lượng đơn vị hành chính được giữ nguyên. Từ tháng 9/2024 đến 30/6/2025, tỉnh Nam Định có 9 ĐVHC cấp huyện và 175 ĐVHC cấp xã.
Hà Nam có vị trí địa lý kinh tế chiến lược của vùng Thủ đô, có vai trò quan trọng trong phát triển các lĩnh vực của quốc gia về công nghiệp, y tế, đào tạo nghề, du lịch, nguồn nhân lực, dịch vụ logistics, đô thị. Phía Bắc và Tây Bắc tiếp giáp với Thủ đô Hà Nội; Phía Đông giáp tỉnh Hưng Yên và tỉnh Thái Bình; Phía Nam giáp tỉnh Nam Định; Phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Hòa Bình và tỉnh Ninh Bình. Tỉnh Hà Nam phân bố ở hạ lưu châu thổ sông Hồng, cũng như các địa phương khác, theo yêu cầu nhiệm vụ của từng thời kỳ, Hà Nam cũng trải qua nhiều lần thay đổi về đơn vị hành chính.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, Đảng và Nhà nước đã có một số lần thay đổi, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh Hà Nam. Năm 1965, Hà Nam hợp nhất với tỉnh Nam Định thành tỉnh Nam Hà, đến năm 1976 hợp nhất với tỉnh Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh.
Ngày 01/01/1997, tỉnh Hà Nam được tái lập. Đến ngày 30/6/2025, tỉnh Hà Nam gồm 6 ĐVHC cấp huyện và 98 ĐVHC cấp xã.
- Ngày 01/7/2025, ba tỉnh Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình chính thức được hợp nhất thành một đơn vị hành chính cấp tỉnh mang tên tỉnh Ninh Bình theo Nghị quyết số 202/2025/QH15 ngày 12/6/2025 của Quốc hội về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh. Việc hợp nhất này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình đổi mới tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đồng thời mở ra cơ hội mới để phát huy tiềm năng, lợi thế vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Quá trình hợp nhất không chỉ tạo ra diện mạo hành chính mới mà còn đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với công tác thu thập, bảo quản, chỉnh lý và quản lý tài liệu lưu trữ nhằm đảm bảo tính liên tục của ký ức lịch sử và phục vụ hiệu quả công tác quản lý, điều hành trong giai đoạn phát triển mới.


Nghị quyết 202/2025/QH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh
- Ngày 16/6/2025, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 1674/NQ-UBTVQH15 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh Ninh Bình năm 2025. Nghị quyết quy định việc sáp nhập, thành lập mới một số xã, phường nhằm tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Sau sắp xếp, toàn tỉnh Ninh Bình có 129 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 97 xã và 32 phường. Nghị quyết có hiệu lực từ ngày ký và các đơn vị hành chính mới chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/7/2025.

Bản đồ chi tiết 129 đơn vị hành chính cấp xã của Ninh Bình (Theo TTXVN)
4. Vai trò, ý nghĩa của tài liệu lưu trữ với “Tỉnh Ninh Bình – 80 năm kiêu hãnh trong dòng chảy lịch sử dân tộc”
Tài liệu lưu trữ là nguồn tư liệu gốc xác thực, ghi lại từng diễn biến tại Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam trong những ngày sục sôi khởi nghĩa. Các Chỉ thị, Công điện, Quyết nghị của chính quyền cách mạng lâm thời, danh sách các tổ chức cứu quốc, Biên bản giành chính quyền… là bằng chứng sống động về khí thế hào hùng của nhân dân vùng đồng bằng sông Hồng trong ngày độc lập.
Hồ sơ lưu trữ chứa đựng các báo cáo kháng chiến, phương án sơ tán, quyết định động viên, thống kê thiệt hại và phục hồi sản xuất, giúp tái hiện rõ nét quá trình vừa chiến đấu, vừa xây dựng quê hương. Đây là tư liệu quý báu để hiểu rõ đóng góp to lớn của nhân dân Ninh Bình trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và giai đoạn phát triển sau 1975.
Tài liệu hành chính về quyết định thành lập, giải thể, sáp nhập tỉnh; hồ sơ bàn giao tài sản, cán bộ, địa giới; văn bản tổ chức bộ máy… phản ánh quá trình hành chính phức tạp của ba tỉnh qua từng giai đoạn lịch sử. Đây là cơ sở quan trọng để phục vụ quản lý, giải quyết chế độ chính sách và giáo dục lịch sử địa phương.
Tài liệu lưu trữ không chỉ là “chứng nhân” lịch sử, mà còn là tài nguyên tri thức, phục vụ nghiên cứu, giáo dục, căn cứ đối chiếu pháp lý và truyền thông. Trong bối cảnh chuyển đổi số, tài liệu này còn góp phần xây dựng chính quyền điện tử, lưu trữ thông minh, quảng bá giá trị lịch sử – văn hóa Ninh Bình trong nước và ra thế giới.
Qua quá trình hợp nhất tỉnh, việc chỉnh lý, thu thập, thống kê, quản lý tài liệu lưu trữ của các phông tỉnh Ninh Bình qua các thời kỳ (Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam trước hợp nhất) là hết sức cần thiết và cấp bách. Từng hồ sơ, mỗi văn bản, tờ Biên bản, Lệnh hành chính, Báo cáo thi đua,… – minh chứng rằng: tài liệu không chỉ là “giấy tờ”, mà là cốt lõi lịch sử của đất và người.
Việc thu thập đầy đủ, phân loại khoa học, xác định giá trị chính xác, thống kê toàn diện và tổ chức quản lý hiệu quả tài liệu phông lưu trữ tỉnh Ninh Bình chính là nền tảng quan trọng cho công tác số hóa, bảo quản lâu dài và khai thác phục vụ cộng đồng. Đây cũng là cơ sở thiết yếu để giáo dục truyền thống lịch sử, hun đúc lòng yêu nước, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Công việc này không chỉ mang tính cấp bách, mà còn là nhiệm vụ chiến lược, góp phần thiết thực vào sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển quê hương, đất nước trong thời kỳ mới.
80 năm ngày Độc lập, tài liệu lưu trữ đã chứng minh rằng: truyền thống là dòng chảy xuyên suốt, lịch sử là sợi dây nối kết các thế hệ. Tài liệu lưu trữ là nơi ký ức hội tụ, nơi tự hào quá khứ, trách nhiệm hôm nay và khát vọng tương lai cùng hòa làm một – để mãi mãi vang vọng tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. 80 năm kiêu hãnh của một vùng đất giàu truyền thống cách mạng, Ninh Bình viết tiếp khát vọng phát triển – nơi lịch sử là điểm tựa, tương lai là tầm nhìn.
Đinh Khuyên - LƯU TRỮ LỊCH SỬ TỈNH NINH BÌNH
2. https://tuyengiaonamdinh.vn/lich-su-dang-bo-tinh/lich-su-dang-bo-tinh-nam-dinh-1930-1975
Trực tuyến: 17
Hôm nay: 1072